Chăn chiên
Người chăn chiênMột trong những hình ảnh phổ biến nhất về chăm sóc mục vụ là hình ảnh người mục tử dẫn dắt đàn chiên đông đảo của mình và bảo vệ chúng an toàn. Vào thời Chúa Giêsu, nhiều đàn chiên có hàng nghìn con, số lượng quá lớn đòi hỏi người chăn phải có tay nghề cao để trông giữ và biết cách chăm sóc cho chúng. Phần lớn thời gian trong năm đàn chiên ở trên cao nguyên rộng lớn, từ tháng 3 đến giữa tháng 11, và dưới trời Đông. Linh cẩu, chó rừng, chó sói lang thang trên các ngọn đồi chẳng khác những tên cướp hai chân, và người chăn cừu thường được trang bị một con dao hoặc một cây gậy. Sự canh chừng và lòng dũng cảm của người chăn cừu đã trở thành huyền thoại. Khi chàng trai trẻ David nóng lòng thuyết phục Vua Sa-un rằng anh có khả năng chiến đấu với Gô-li-át, anh nói :
“Tôi tớ ngài là người chăn chiên dê cho cha. Khi sư tử hay gấu đến tha đi một con chiên trong bầy gia súc, thì con ra đuổi theo nó, đánh nó và giật con chiên khỏi mõm nó. Nó mà chồm lên con, thì con nắm lấy râu nó, đánh cho nó chết ... Đức Chúa là Đấng đã giật con khỏi vuốt sư tử và vuốt gấu, chính Người sẽ giật con khỏi tay tên Phi-li-tinh này.” (1Sm 17,34 tt)
Chăn chiên là một nghề nguy hiểm; cuộc sống ngoài trời thật khó khăn. Đôi khi những người chăn chiên xây chuồng chiên bằng cách xếp đá thành những bức tường để việc quan sát và đếm dễ dàng hơn; điều này cũng cho phép họ có nhiều thời gian hơn lo cho chính mình. Tuy nhiên, nếu mùa khô kéo dài, họ phải di chuyển đàn gia súc tìm đồng cỏ mới và nguồn nước, và vì thường xuyên xâm phạm đất tư nhân nên không được lòng các chủ đất. Giống như những người thu thuế, họ bị cấm giữ các chức vụ công, bằng chứng trước tòa của họ vô giá trị.
Chúa Giêsu Mục tử
Hình ảnh người mục tử nhân lành lang thang, lo lắng chăm sóc đàn chiên của mình đến mức sẵn sàng hy sinh mạng sống vì chúng, là hình ảnh Chúa Giêsu sử dụng về chính Ngài trong Tin Mừng hôm nay. Sự kết hợp giữa dịu dàng và cứng rắn, quan tâm và hy sinh bản thân chính là đúc kết về cách lãnh đạo của Ngài. Đó không phải là sự lãnh đạo tách rời và phòng thủ; đúng hơn, đó là sự lãnh đạo dấn thân và hy sinh vì yêu. Trong tình yêu đến dại của người Mục tử nhân lành, mạng sống của Ngài không quan trọng bằng mạng sống của đàn chiên.
Hình ảnh mục tử nhân lành không phải là hình ảnh của uy quyền tôn giáo, luôn hài lòng với tầm quan trọng của mình, mù lòa trước đau khổ vô ích mà chính chủ chăn gây ra cho đoàn chiên của mình. Mục tử phải trả giá cho uy quyền của mình chứ không phải đàn chiên. Hình ảnh người mục tử không tách rời cách họ thực sự chăm sóc đàn chiên. Sự quan tâm của mục tử không hề lăn tăn, lòng dũng cảm không phải là không có máu, tình yêu là không thể tách rời. Chúng ta thấy cách Chúa Giêsu thực sự cư xử như một người lãnh đạo : dịu dàng và can đảm.
Chúa Giêsu chạm trán với đối thủ, mặt đối mặt.
Ngài đương đầu với những kẻ đánh cắp phẩm giá của người phận nhỏ.
Ngài chỉ đích danh những con sói đội lốt chiên.
Ngài bỏ qua khi kẻ thù e dè ngượng ngập.
Ngài cảnh báo các môn đệ về khó khăn phía trước,
nhưng lại đến đó trước họ.
Ngài bảo vệ khi những kẻ theo Ngài bị tấn công.
Ngài hiểu rõ những ương ngạnh của mọi người.
Ngài chịu đựng sự cô lập và xúc phạm.
Ngài đối diện với nỗi sợ hãi của chính mình, nhưng vẫn trung thành.
Ngài liều mạng vì chiên.
Ngài hy sinh mạng sống vì chiên.
Chăm sóc mục vụ
Trong sự sống và cái chết của mình, Chúa Giêsu tìm kiếm những người hư mất, những kẻ hèn mọn và rốt hết. Khi muốn nói về một Thiên Chúa dịu dàng, Ngài kể cho dân chúng nghe chuyện một mục tử bị mất một con chiên, ông đã bỏ những con khác và đi tìm con chiên bị lạc. Người chăn chiên không chấp nhận mất một con nào, dù “chỉ một thôi mà !” Anh tìm con chiên lạc cho đến khi tìm thấy nó, rồi vác nó lên vai và trở về chia sẻ niềm vui với tất cả láng giềng.
Đó là hình ảnh chăm sóc mục vụ của Chúa Giêsu, cuộc tìm kiếm tiếp tục cho đến khi tìm được dù chỉ một. Tất nhiên, chúng ta biết rằng việc tìm kiếm không tự động thực hiện sau khi mất. Nhiều tổn thất thậm chí không được ghi nhận. Nơi không có tình yêu thì làm gì có mất mát. Một số người coi đi lạc là "chuyện nhỏ". Người khác còn được khuyến khích "đi lạc". Nhưng tất cả chúng ta đều hy vọng rằng khi chúng ta lạc lối sẽ có ai đó, ở đâu đó, đang tìm kiếm chúng ta, như người chăn chiên nhân lành.
Khi chúng ta bỏ rơi người lạc lối, Người mục tử nhân lành thách thức : “Tôi đến để tìm và cứu những người lạc.” Có lẽ tất cả chúng ta đều biết có ai đó đã rời xa Giáo hội, mất đi cảm giác thuộc về hoặc cảm thấy mình bị loại. Làm sao họ biết họ được chào đón trở lại nếu không có ai nói với họ ? Họ sẽ được giúp đỡ như thế nào nếu không có ai đề nghị thực hiện một chuyến về cùng họ ?
Nguyễn Minh Đức (Nhà thờ Nà Phặc) chuyển ngữ